Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

TỪ "HIU HIU GIO BẤC" ĐẾN " ĐỒNG CỎ CHÁT' VÀ NHỮNG CON CHỮ "LẶM LỘI"

NLC
Tình cờ, tôi ngồi cùng Phan Đình Minh, Nguyễn Ngọc Tư và Võ Đắc Danh trong một bàn tiệc.
Không có gì kỳ cục và bản thể bằng ý nghĩ. Cũng không có gì kỳ diệu, tao nhã  bằng ý nghĩ. Trong vài giây ý nghĩ đã có thể đến Nam Cực rồi quay về lục chạn tủ thức ăn, bỉu môi chê cái mùi tanh ói xộc ra từ con mực chưa nấu. Ngay liền đó, ý nghĩ đã mơn man một nụ cười mà nó đã  cưỡng đoạt xong một cơ thể…Tôi tin chắc, ý nghĩ của bất kỳ người nào cũng đều xảy ra tương tự, thậm chí xảy liên hồi kỳ trận, chỉ là ít ai nói ra, họ nghĩ gì.
 Lúc này đây, ý nghĩ của tôi là  một tam giác. Tôi kéo một đường nối từ Phan Đình Minh đến Võ Đắc Danh và sang Nguyễn Ngọc Tư. Nối vùng chiêm trũng bên con sông Lai Vu đến đầm lầy đầy bần đước, và tầng tầng lớp lớp cỏ rêu, đưng, lác của U Minh  hạ, U Minh thượng, Cà Mau; rồi từ đó đường kéo này nghẹo sang những trang viết của họ. Một tam giác hoàn toàn không đồng đều, dù có thể xuất hiện những chỗ đồng nhất, thì đã sao?
Nhà văn Phan Đình Minh từng là chú lính tơ, đóng quân ở gần ngôi đền mà Campuchia và Thái lan đang tranh giành. (Sự tranh giành luôn xảy ra cho dù đó là nơi linh thiêng, hay chỉ là nơi có hai người.  Ừ mà phải nói rằng, càng là nơi linh thiêng thì càng tranh giành quyết liệt, vài nơi trên thế giới đang xảy ra như thế trong vài chục năm rồi, đủ làm bằng chứng chưa nhỉ?)
Nghe đồn, dạo nhà văn Phan Đình Minh đang là lính, có khi suốt tháng chỉ làm mỗi nhiệm vụ lang thang đi tìm rau muống, đêm về nằm ước sau này mình có truyện ngắn được đọc trên trên Đài Tiếng Nói Việt Nam vào giữa khuya để ông bố nông dân của mình cứ lịm đi vì xúc động, nở ruột, nở gan tự hào về thằng con từng xì xụp mò cua, mò ốc nơi con sông chảy quanh làng. Và  thiên hạ cũng từng xầm xì, dạo ấy, chàng trai Phan Đình Minh yêu một nữ quân y, sau này nàng về công tác ở một phân viện 175, Thủ Đức. Mối tình thơm nồng nàn vị món miến gà và nóng hầm hập những cơn sốt rừng khô héo. Nàng đã lặng lẽ rời đi không một lời từ biệt. Chàng vẫn mong có ngày hội ngộ để thăm hỏi nhau…Sau này nữa, khi cuộc chiến Tây Nam tạnh khói, Phan Đình Minh đầu quân lực lượng công an và công tác ở Hà Nội.
Võ Đắc Danh và Nguyễn Ngọc Tư  khác hẳn Phan Đình Minh, cả hai là con Cà Mau và hao hao như sông nước một màu ( Tất nhiên, Nguyễn Ngọc Tư, nữ giới, trẻ, mộc mạc, màu da đậm, đằm nắng gió, hệt như Tư vừa bước từ đồng ruộng vào,  vóc dáng bé nhỏ, chân đi cùng bước với mèo hoang. Tôi dám chắc, nếu ngồi lắng nghe thì có thể nghe tiếng thở dài của nhân vật Tư viết, ví dụ như tiếng thở dài của Hết  trong “ Hiu hiu gió bấc”, sau lúc tiễn tốt sang sông, kế đó là tiếng rớt của thời gian rơi giọt giọt, chứ không phải tiếng chân của Tư. Tư có nụ cười nửa thẹn thùng, nửa chế riễu mọi sự trên đời, tuồng như tất thảy chỉ đáng để cười như thế mới có thể bắt tay thỏa hiệp. Ừ, thì thỏa hiệp.
Võ Đắc Danh tất nhiên là ngược phái đối với Nguyễn Ngọc Tư. Anh dong dỏng cao, hơi mảnh khảnh một chút về vóc dáng, gương mặt phong kín mọi ý nghĩ, ngay cả trong đôi mắt cũng không tiết lộ bất kỳ điều gì. Chúng dường như ở một nơi nào quá xa xôi và quá bận bịu với suy tưởng, ngẫm ngợi, hoặc đang đuổi theo một điều gì có thể nắm giữ được, cũng có thể là không, ví dụ như chân lý chẳng hạn.
 Võ Đắc Danh thành công bằng các bút ký đẫm tình yêu cuộc sống với  những người thật, việc thật, tốt đến khó tin như chàng tiều phu Nguyễn Tấn Bông, ở Núi Cấm, trong "Cổ tích trên đỉnh mồ côi"; hoặc xấu đến kỳ lạ như Điều  trong “ Đồng cỏ chat”. Điều gắn với chị Thiện bằng dọa nổ tung lựu đạn. Hắn bỏ chị Thiện đi dễ dàng, còn chị Thiện muốn không liên quan đến hắn nữa bằng pháp luật thì lại vấp núi, vấp sông đến tưởng như không làm nổi. Thế mà không lạ, cái gì lạ nữa, nhỉ?
Hầu hết các tác phẩm đã công bố của Võ Đắc Danh là ký, một thể loại “gân” trong viết báo. Bởi vì, nhân vật trong ký là thực, sự việc trong ký là thực, nhưng ngôn ngữ phải là văn. Nó cũng phải óng ả, chuốt lời, chuốt ý mềm mượt. Cũng gợi cảm xúc hỉ nộ ái ố để thương thì thương quéo ruột, mà giận thì cũng phải giận nổ trời; cũng gợi cảnh như vẽ tranh, sắc màu đậm nhạt, tối sáng phải chỉnh chu, vừa ăn ý, vừa chuyển được nhịp thời gian, chuyển được rộng hẹp, cao thấp của không gian...Muốn viết được ký, chuyện đầu tiên là tác giả phải “lặm lội” ( chữ lặm lội tôi đọc lần đầu trong văn của anh Phan Đình Minh. Sẽ trở lại với chữ này ở đoạn sau) đến tận nơi, mắt ngó cảnh, miệng hỏi chuyện nhân vật, đầu óc quan sát, ghi nhận và tay thì hý hoáy không ngừng với những tư liệu không thể nào nhớ hết. Đêm về, đầu óc lẩn vẩn bên nhân vật, vần qua, vò lại có khác nào tương tư tình nhân. Đồng thời phải phân tích sự, việc, đưa ra  luận điểm để “thương” hoặc để “ghét”... Nhưng muốn làm việc đó phải làm khéo như thể “ tui đâu nói gì đâu”; sự việc, hoàn cảnh và con người trong cuộc nói đó chớ. Một chuyến đi vượt hàng trăm cây số, tốn vài ba ngày, về bằng tay không là chuyện thường ngày ở... ấp. Trên văn đàn Việt Nam, người thành danh với thể loại Ký chỉ đếm trên đầu ngón tay như nhà văn Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường..., trước đây vài chục năm, và nay là Võ Đắc Danh.
Những tác phẩm ký còn lại trong lòng người đọc hôm nay, của những tác giả đi trước đa phần là ký về phong cảnh, ký về món ăn, phố xá, ký nhân vật nổi tiếng như các chính khách, văn nhân, hoặc nghệ sĩ. Riêng mảng ký Thời sự hầu như ít người viết. Ngày nay, ký thời sự với những nhân vật phản diện, viết được nó người viết phải “ngang tàng” kiểu rễ bần của sông nước Nam Bộ, cắm ngược lên trời xanh ngạo nghễ.
Nếu xếp một số  tên tác phẩm của Võ Đắc Danh lại sẽ có những “mật mã” mở xoáy vào nhân tâm như: “ Lấy chồng xa xứ”  thì đến “ Đất và máu”  rồi quay trở lại “Về với đáy sông”  và  “Hàn sĩ lên ngôi vua cá”  “Giữa hai dòng mặn ngọt” để “Chiều chiều ra đứng ngỏ sau” ngóng “ Cổ tích trên đỉnh mồ côi”…Những con chữ lúc này giống như đã được Trì Chú Từ Bi, chúng trở nên đạo hạnh hơn trong bàn tay thuần dưỡng của tác giả. Bạn thử mở những “mật chú” kia ra, đi vào tác phẩm và sẽ có những thẩm định riêng của bạn. Tôi tin vậy.

Nguyễn Ngọc Tư đến với tôi bằng “ Hiu hiu gió bấc”. Cái ngọn gió khiến Hết gạt nước mắt tiễn tốt qua sông trên cuộc cờ người. Tôi không nghĩ như Tư, rằng cờ tướng là môn dành cho người quân tử. Với tôi, đơn giản đó chỉ là một môn chơi. Ai thích cầm quân mà không có điều kiện “ đánh đấm” thật trong cuộc đời, cứ việc ngồi vào bàn cờ tha hồ điều binh khiển tướng. Những kẻ đó, khối người chỉ là người thôi, chẳng quân tử, cũng không tiểu nhân; chẳng anh hùng cũng không hèn toàn diện.  Vả lại, thời nay tìm quân tử trong cuộc cờ e còn khó hơn tìm anh hùng chốn nhốn nháo thị trường. Không tin, bạn thử ra ngỏ mà xem, chẳng phải ngoài ngỏ đầy anh hùng đó sao?
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư hôm nay đã nhiều, tôi đọc xong cái quên, cái nhớ. Nhân vật của Tư cũng nhiều, nhưng tôi nhớ Hết. Tôi ghét  giọt nước mắt của Hết. Tôi ghét cuộc cờ không cho con tốt sự lựa chọn nào khác. Điều đó có phải là “số phận” vốn thế hay không? Về tốt, luật chơi đã định sẵn. Quyền của anh ở chỗ là thích chơi cờ phải chấp thuận, không thì lựa chọn môn chơi khác. Nghĩa là anh có quyền từ chối không chơi. Còn Hết, sao lại bằng lòng làm tốt trên bàn cờ và chấp nhận nước đi không bao giờ quay về nhỉ?
Những dòng văn của Tư neo trong đầu tôi dấu móc câu hỏi, và cứ thế nó bắt buộc tôi lần theo những trang viết của Tư không ngừng. Tư sẽ làm gì cho các nhân vật của Tư? Sẽ mãi để họ với “ Đời như ý”, hay chờ đợi phút “Giao thừa”, hay sẽ đi cùng khi đã “ Cuối mùa nhan sắc”…?
Tôi lẽo đẽo theo các nhân vật nữ của Nguyễn Ngọc Tư. Tôi lang thang cùng “Giang,  Nhớ sông” trong cái đêm trở về, hai chị em cùng thao thức trên bến vắng, nghe “Hiện, nằm ca sang sảng”. Tôi cũng bẩn thẩn bần thần cùng “ Dì Út Thu Lý” đứng đầu ngỏ trong “Chiều Vắng”
Nguyễn Ngọc Tư là thế hệ sanh ra từ 7X, sao cái nhìn lại dằn vặt  nhiều chịu đựng trong tình duyên đôi lứa? Chị Đặng Thị Kim Oanh bạn tôi nói rằng, phụ nữ thế hệ 5 X vẫn bị trói buộc hoàn toàn trong tiết hạnh gia phong. Phụ nữ sanh ra trong thập niên sáu mươi của thế kỷ trước nhiều vật vả trước cái mới ào ạt ùa vào đời sống cởi bung mọi quan hệ rằng quí ông thì tha hồ năm thê bảy thiếp, chị em chính chuyên thờ mỗi một chồng. Thế hệ sanh từ những năm 70, hay gọi là 7 X bước vào giai đoạn khác hẳn 50, và họ rất mới từ nhận thức đến biểu hiện trong tình cảm luyến ái. Điều này, gần như không thấy trong các nhân vật nữ của Nguyễn Ngọc Tư?
Nhiều người nói, họ thích Nguyễn Ngọc Tư không phải do cốt truyện của chị, mà là do giọng văn ngọt lịm chất Nam Bộ dân dã.
Đọc văn Nguyễn Ngọc Tư,  đọc ký Võ Đắc Danh khiến tôi thấy đằng sau chữ, nghĩa của họ là bóng dáng của những nông dân, những con người  lặng lẽ, buồn buồn. Họ gợi cho tôi bến phà Cần Thơ nơi lần đầu tôi gặp những chiếc xe đạp  chở khách. Các bác phu xe có lời mời ngọt dẻo như kẹo dừa Bến Tre, gò những tấm lưng dài nhẳng, trên những chiếc xe đạp có chiều dài như mong ước của họ. Họ cũng gợi  nên Hậu Giang, Long Xuyên  nơi đàn sáo bay rợp  dân ca; bầy muỗi dày  vãi trấu, nhốn nháo liệng đen mắt mỗi chiều, quanh bàn nhậu Tía Hai, cậu Út uống  đế Cuốc Lủi do các Chế cất từ gạo  Tám với nước sông Tiền, sông Cửu Long. Tía bẻ trái ớt hiểm chấm vào chén  nước mắm ép từ con cá Sặc, cắn sựt, xong bưng ly rượu tăm sủi lăn tăn, dựng đứng cổ ực gọn. Họ cũng gợi trong tôi  hình ảnh những cây bần với bầy rễ khỏe khoắn dựng ngược  lên trời trên bên những bờ sông, bờ kênh dày đặc phù sa. Trông chúng thảnh thơi, ngạo nghễ và đầy vẻ thách thức, tự tin. Chúng rất thành công từ khai thiện lập địa cho đến ngày nay trong tư thế giữ đất, và chiến thắng mọi cuộc xâm lấn của nước biển. Nhưng,  ngày nay, chúng gần như  đã đại bại dưới bàn tay tàn phá con người.
Những dòng chữ mang tư tưởng chỉ có thể đủ mạnh khi chúng được nuôi dưỡng trong triệu triệu trái tim. Ngược lại, chúng chỉ là rác. Chẳng phải loài người đang thiếu lương thực, thiếu tình cảm, thiếu tài nguyên, cả khí trời rồi cũng sẽ thiếu, chỉ rác là tràn ngập từ trong tâm ra đến mặt đất đó sao! Và thật đáng thương, khi chúng ta đã ngập trong rác với mùi của nó mà mặt cứ vênh vênh.
Nếu Võ Đắc Danh thuần dưỡng được con chữ trong ký, Nguyễn Ngọc Tư khai thác thành công ngôn ngữ dân dã Nam Bộ, thì nhà văn Phan Đình Minh khiến người đọc thú vị bằng những câu chữ mới hoàn toàn, hay chí ít là tôi đọc lần đầu trong văn, thơ của Anh. Về gió, tôi ngất ngây khi đọc dòng này trong một tản văn của Phan Đình Minh: “ những lát gió hòa loãng nắng vẩy lên không khí hội hè…” Ngọn gió, gió thoảng, gió bão, gió nhẹ, gió hiu hiu, gió buốt, gió nhè nhẹ vv. Tôi từng đọc rất nhiều, đọc đi đọc lại và khi viết cũng quẩn quanh cùng những chữ gió ấy. Nhưng chữ “lát gió”  thì mới quá.  Chưa hết, về sau cũng là gió, tôi còn bắt gặp những gió khác nữa trong văn Phan Đình Minh: “Gió trộn trạo mơn man, lá sấu vung vãi xuống đầu. “Gió quẩn ngang trời”;  “Trời trở, hong heo bụi, đường làng dệu gió”, trong “ Tết lạnh”. Và nói về lạnh, trong “Tết lạnh”, tôi bắt gặp những con chữ lạ, chúng khiến tôi tin chúng vừa quậy cựa chào đời dưới bày tay, khối óc của Anh:
Bên ngoài, lạnh veo véo muốn bứt vỡ tấm kính cửa nhà”. Trong “Chốn quê”.
“…cái lạnh ngoai ngoải trong ánh mắt những người trồng đào.”
 “Da mặt em dường khô hơn bởi tãi giữa những cơn lạnh 7 - 8 độ hun hút trên đường”.
Ánh mắt cô gái buồn vô vảo. Tôi lom rom và bỗng rùng mình khi nhớ lại mình nênh bênh lúc 4 giờ sáng hôm qua” 
 Hoặc những chữ sau đây:
Giọng bà Hình, nghèn nghẹt như thổi gió vào ống tre, giọng thằng Quý, khậu khẹt, ngầu ngò”.
Anh Ứng, thập thừng.”
 Hoặc những chữ, “giấy thiu, múc từng thìa nắng, bung biêng thấp cao, sương khổ... Không còn nhớ được đã đọc tác phẩm nào của Phan Đình Minh, chỉ nhớ chữ rất lạ.
Có những chữ Anh viết tôi không hiểu. Tôi đoán có thể đó là phương ngữ, cũng có thể do cách phát âm mà ra. Nhưng có nhiều chữ như chữ “lát gió”, tôi tin chắc là do Anh nhào nặn máu thịt mình  mà thành.
Có những chữ khi đứng riêng lẻ chắc nó chưa biểu hiện nghĩa gì, thậm chí không có nghĩa như “vô vảo”. Nhưng khi nó đứng trong câu: “Ánh mắt cô gái buồn vô vảo”, thì đã khiến tôi hình dung trong mắt cô gái ấy không bắt gặp bóng người, không bắt gặp lá bay, chim liệng hay bất kỳ thứ gì kể cả ảo ảnh. Nó chỉ còn hiện diện choáng ngợp nỗi buồn. Hay như chữ “ khậu khẹt, nó chỉ gợi một âm thanh, không có nghĩa gì khi đứng riêng; hoặc chữ “giấy thiu, múc từng thìa nắng” chỉ có nghĩa bóng…
Tôi tin, kho chữ Việt không ngừng bổ sung nhiều từ mới, nhiều chữ mới do thời đại, do cuộc sống mang lại để cũng có thể dùng nó chuyển tải lại  hơi thở thời đại và mạch đập cuộc sống. Hy vọng  những con  chữ  “ lặm lội” chào đời của nhà văn Phan Đình Minh  sẽ có ngày cùng đứng trong hàng chữ Việt, trên nhiều trang viết. 
NLC
17/4/2011

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2011

TÔI YÊU NGÀY HAI BỐN THÁNG TƯ

Feb 2011 036

NLC
Dăm năm nay gần đây, trừ những lúc không thể lên mạng, còn nếu đã lên được mà không  “mò’ vào blog Thanh Chung thì giống như khát nước không thể uống. Thèm chết đi được. Hề hề.
Vào Thanh Chung, chắc chắn sẽ “thó” được một điều gì đó. Thậm chí còn có thể được thưởng thức “đặc sản bốn phương” mà Chị bất ngờ chiêu đãi một cách hào phóng. Như “CuBa Thiên Đường và Gian khó”, bài viết mới nhất của chị khi tôi gõ những dòng chữ này chẳng hạn. Chị đã trình bày về CuBa một cách gần gũi, chân thật. Một cái nhìn bình dị không bị méo mó qua bất kỳ lăng kính nào, bởi vì chị không có mục đích nào để “mị” người đọc. Một điều bình thường trong thông tin. Nhưng có lẽ, quá lâu bị bao bọc, bị bủa vây trong những thông tin rập khuôn, có mục đích bằng các “sáng tạo chi tiết, hoặc cắt xén đoạn khúc” theo ý đồ của tác giả, nhóm người  nên tôi và bạn khao khát những dòng thông tin chỉ đơn giản là chụp lại vấn đề một cách trung thực? “Mỗi hộ gia đình một tháng được phân phối vài chiếc đùi gà và hai vỉ trứng. Giá rẻ như cho không. Mua, bán thực phẩm ngoài chợ đen bị coi là phạm pháp. Nhiều công chức nhà nước mỗi ngày chỉ ăn một bữa chính vào buổi tối. Bữa sáng gồm vài lát bánh mỳ và một ly cà phê. Bữa cơm trưa được xếp vào hàng “xa xỉ”.” Đoạn viết này của Chị khiến tôi nhớ đến bà Duy, mẹ của Bình ở cạnh nhà tôi. Những năm 79, 80 của Thế kỷ trước, bà Duy buôn hàng chuyến Sài Gòn- Đức Linh và ngược lại. Khi ấy, Quản lý thị trường bắt từ hạt đậu xanh, đến ký thịt heo. Bà Duy đã bó những ký thịt heo vào đùi, vào bụng giả làm người đang có mang để lọt qua các chốt kiểm soát. Bà đã làm thế trong nhọc nhằn, đau khổ và cả cảm giác tội lỗi vì phỉ báng thức ăn, vì trot cất để thức ăn vào nơi “ô uế” mà người mua có khi dùng làm đồ thờ cúng. Những đồng tiền hổn hển đau đớn đó của bà nuôi Bình thành một ông nhớn ngày hôm nay. Những dòng viết của Thanh Chung, cũng gợi tôi nhớ đến một truyện ngắn trong tập “Thời Loạn” của nhà văn Hoàng Đình Quang, tôi không nhớ tên truyện, không nhớ tên nhân vật, chỉ nhớ họ đi qua cửa ngỏ kiểm soát Thị trường ở Long An vào SàiGòn. Anh cán bộ thị trường bắt một soong thịt heo kho với lý do nó quá 5ký cho phép. Người bị bắt năn nỉ, khóc lóc trình bày rằng đó là nồi thức ăn mang lên nuôi cha bệnh nằm dài ngày trong bệnh viện Chợ Rẫy. Vì nghèo khó mới phải làm thế cho đỡ tốn kém. Cán bộ vẫn khăng khăng thực thi nhiệm vụ (giá mà ngày nay cán bộ ai ai cũng cứ thẳng mực tàu như thế, rạch ròi cương quyết như thế, khi thi hành công vụ thì phúc cho đất nước, biết mấy) cương quyết bắt giữ nồi thịt kho. Người bị nạn nỗi cáu nói, thịt bắt thì bắt nhưng nồi trả lại. ( Hình như ngày đó chưa qui định bắt luôn phương tiện phạm pháp hay sao ấy) vì thế thịt mang đổ ra, còn nồi giả cho khổ chủ. Lên xe, nhà văn hỏi người mất thịt: Bố anh ốm gì? Anh kia nói, bố tôi có ốm đâu. Ai bảo bố tôi ốm? Thì tôi nghe anh nói thế với cán bộ lúc xin nồi thịt. Gã ấy cười hô hố, đó là điệp khúc xin xỏ thôi. Nồi thịt ấy là món hàng bỏ mối. Tiếc. Mất cả chục ngày công!
Ôi. Kẻ cắp bà già! Thời thế nó thế. Và có phải thời thế luôn sản sinh ra như thế?
          Hay như đoạn viết sau đây của Chị: “Phía trước tòa nhà “Quyền lợi Mỹ”, các bạn Cuba dựng lên 154 cây cột, Tượng trưng cho 154 nạn nhân bị khủng bố dưới bàn tay của Mỹ. Vào những ngày văn phòng này cho chạy những dòng chữ điện tử “khiêu khích”, kêu gọi tự do, dân chủ; Chính quyền Cuba cho kéo lên một rừng cờ đen. Một mặt để che kín những thông điệp do “kẻ thù” đưa ra. Mặt khác những lá cờ đen, dài rộng bay phần phật trong gió cũng tạo ra những hiệu ứng tâm lý đặc biệt với cả hai phía.”.
Tôi có lẽ đã hàng trăm lần đọc thông tin về đất nước CuBa anh em, nhưng đọc bài viết gợi suy nghĩ nhiều là bài của chị Thanh Chung là lần đầu. Tôi tự hỏi, sát biên giới với Mỹ sao CuBa lại thiếu thốn lương thực, thực phẩm và nghèo khó đến như thế? Trong khi đó về sức vóc con người, dân Cuba to cao đâu kém bất kỳ dân tộc lực lưỡng nào trên thế giới? Họ lười biếng đến cùng cực, hay cơ chế của đất nước họ trói buộc nhân dân trong cái cơ cực của đạo hạnh thiên đường?
Một bài viết mà sau khi đọc xong khiến bạn phải loay hoay quanh nó nhiều giờ, khiến bạn phải cân, đong, đo,  đếm từ những vật phẩm nhỏ nhoi như bó rau, lạng thịt đến đất nước và con người thì bài viết ấy dứt khoát phải do một tác giả đủ có óc quan sát tinh tế, và bao quát. Đồng thời, tác giả phải có cái nhìn rất căn cơ với vấn đề con người sống để làm gì? Để mưu cầu hạnh phúc hay chỉ để ăn, sống và sống để ăn? Hay để hy sinh hoặc nhận những gì người hy sinh mang lại?
Có rất nhiều người bạn khuyên chị Thanh Chung đừng “cãi nhau” với thinh không nữa. Tôi lại nằm trong số những người thích “mục sở thị” bài viết gọi là “cãi nhau” của Chị. Mỗi khi đọc những bài viết này tôi không khỏi nghĩ thầm, Thanh Chung “cãi” như thế chắc ít “thầy cãi” nào dám đứng ra “tay đôi” cùng Chị. Bởi vì, vấn đề trong bài viết của Thanh Chung vừa rất cụ thể như “Lượm” của VTV, như “ anh Tô”, hay như “chuyện thầy Khoa”…nhưng đó cũng là những nổi cộm của tảng băng dư luận về các vấn đề xã hội, trong đó sự xuống cấp ý thức, văn hóa, đạo đức đã làm nhức buốt lòng người. Chị dùng cái chặt chẽ của con mắt nhà Kiểm toán để đo lường sự việc. Dùng cái tâm của người mẹ, người chị mà lên tiếng, dùng tấm lòng của người thích việc thiện mà san sẻ, dùng ngôn từ sắc như dao, nặng như đá núi để rạch đôi, chia nhỏ vấn đề ra xem xét tỉ mỉ sự sai, đúng qua các mặt cắt và có trách nhiệm khi lên tiếng. Tiếng nói của Chị qua các vấn đề trên là tiếng nói thấu tình, đạt lý. Vì thế, mỗi bài viết về thể loại như vầy thường được báo điện tử, website và blog khác đăng tải lại, trong đó Quê Choa blog cũng là một trong những nơi rất hay “đồng thanh tương ứng” với Chị.
“Nhân ngày tám tháng ba, tôi thiết tha đề nghị bà chủ tịch Hội, với tấm lòng bao dung của người bà, người mẹ trước những lỗi lầm của con trẻ, hãy bổ sung vào các hoạt động kỷ niệm một tiếng nói yêu cầu thực thi công lý cho hai cháu Hằng và Thúy. Xin hãy dừng lại phiên “xử kín”, để cho hai cháu được công khai nói hết sự thật trước tòa. Kẻ có tội nhất định phải chịu sự trừng phạt công minh của Pháp luật. Xin trân trọng cảm ơn bà.” Trích trong “ Thư ngỏ gửi Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam”. Nhiều tiếng nói trả lời thư ngỏ này, tôi rất tiếc là không có tiếng nói của người nào gọi là người có trách nhiệm, vì vậy, tôi gọi những bài viết này là “ Cãi nhau với thinh không”
Thanh Chung của tôi cũng thật dịu dàng, đây là một bài thơ của Chị:
Tháng tư về rồi anh có nhớ không
Có một người vẫn đợi quà sinh nhật
Nửa trời em - xuân còn lạnh lắm
Đào vừa kịp nở hoa

Tháng tư về thêm một tuổi đi xa
Thêm một tuổi cộng vào miền ký ức
Cóp nhặt yêu thương, khát khao hạnh phúc
Đêm chông chênh - hai phía không người

Ve đầu mùa day dứt tháng tư ơi
Điều chưa nói, không còn mong nói nữa
Mưa giận dỗi những chiều quay quắt nhớ
Đêm trở mình, thêm một tháng tư qua.

New York - tháng 4/2008


          Trong bài thơ trên, Thanh Chung của tôi như bao người phụ nữ khác, khát khao hạnh phúc bình dị bên Anh, với những dỗi hờn và thương nhớ. Chông chênh ở phía không bóng người. Thế nhưng, Chị cũng là một phụ nữ ít chị em sánh kịp. Vượt qua nhiều cuộc thi, nhiều đối thủ để trở thành nhân viên Chương trình nhân đạo của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam, rồi thi và trở thành nhân viên tại cơ quan Liêp Hiệp Quốc ở New York, đó là việc khó ngoài sức tưởng tượng của tôi và Chị khiến tôi tự hào. Thanh Chung thạo hai ngôn ngữ Pháp và Anh. Chị từng là giáo viên ngoại ngữ tiếng Pháp.
          Sanh ra trong một gia đình nghèo. Bố mẹ là cán bộ kháng chiến. Bố mẹ đều mất sớm. Chị Hương, người chị cả trở thành “mẹ” của cô em út Thanh Chung ở cái thời tóc đầy chấy, người đầy rận và đói khát từ bát cơm đến hơi ấm yêu thương. Kể một chút để hiểu được con đường Thanh Chung đi qua là một con đường đầy khổ ải, muốn vượt phải có một nghị lực hơn người và kiên trì đến khó tin. Vậy mà Thanh Chung đi được, đi từng bước và đi vững vàng.
          Tôi nhớ tháng sáu 2010, tại đường Paster SàiGòn, trong một gian phòng dành cho cán bộ của Cục Đường thủy, chúng tôi nằm bên nhau nói nhiều thứ, nói xuyên đêm. Nói từ văn chương sang đến con người. Nói từ các nhân vật lừng lẫy trên Thi đàn, Văn đàn đến những cây bút chúng tôi vừa làm quen. Thanh Chung có các ý kiến chuẩn xác về chữ, nghĩa, có những so sánh khó bác bỏ luận cứ, nhân vật và cũng có những nhận định “chết người”, Chị nói: Những cây bút nước mình đa phần viết bằng kinh nghiệm sống, họ rút hết các kinh nghiệm thì không còn gì nữa. Họ rất ít cơ hội để viết chuyên nghiệp, nghĩa là không nghĩ đến các vấn đề cơm áo, suốt đời chỉ chăm chắm vào chuyện văn chương và làm việc có giờ giấc chứ không sáng tạo theo cảm hứng như hiện nay, có như thế, họ mới đào sâu hơn nữa các vấn đề về con người, về nhân bản, về mưu cầu, về ý nghĩa, về quyền lợi vv và vv. Chị là một tay nghiện sách. Trong valy, túi xách của Chị lúc nào cũng có một quyển sách. Trên chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam chị ngấu nghiến xong vài tập truyện ngắn, sau chuyển thành quà cho tôi. Từ đó, có thể hiểu cái tâm của chị đối với văn chương, viết, lách.
          Một bài viết ngắn ngủi khó nói đầy đủ về Thanh Chung. Tôi rất thích câu này trong “quà sinh nhật” của nhà văn Phan Đình Min: “ Viết về Thanh Chung thích dừng ở đâu thì dừng” vì nói hết, khó mà hết. Vì vậy, bài viết này của tôi là một mẩu bánh góp vào chiếc bánh sinh nhật dành tặng Thanh Chung.
          Tôi đã yêu tháng Tư, yêu ngày 24, ngày này chỗ tôi ở rực tím những ngọn đuốc hoa bằng lăng, chúng gợi nên bao đều tha thiết, và chúng nhắc tôi nhớ về người bạn Thanh Chung ấm áp trong ngày sinh của Chị.